http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55133
Lợi
Hưu (Rikyu, 1522 – 1591) người đã đưa nghệ thuật uống trà trở thành Trà
đạo, trả lời rất giản dị: “Trà đạo là cách làm cho ta hết khát".
Chúng
ta khát nước khi uống không đủ, và chúng ta thường khao khát niềm an
vui và muốn hòa nhập với sự sâu thẳm của tánh tự nhiên sẵn có nơi mình.
Tánh đó vốn rộng lớn bao la, trong sạch vô cùng, an vui vô hạn và tĩnh
lặng nhiệm mầu. Chúng ta gọi tánh ấy là tánh chân thật, tâm chân thật
(chân tánh hay chân tâm) hay Phật tánh.
Trà
đạo là nghệ thuật pha và uống trà, đưa ta tiếp xúc thẳng với cội nguồn
tâm linh ấy. Nguyên tắc của Trà đạo nằm sẵn trong nguyên tắc sống thiền:
hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng.
Thiền
cũng chỉ là một tông phái của Phật giáo, nên các nguyên tắc trên vốn là
sự bất khả phân giữa hiện tượng bên ngoài và thế giới bên trong. Sự hòa
hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của trà thất, của trà chủ
(người mời) và trà khách (người được mời) vốn là sự hợp nhất của tâm và
cảnh, của thế giới bên ngoài và thế giới bên trong nơi mỗi chúng ta.
Tô
Đông Pha, một thi sĩ nổi tiếng và cũng là một người tinh thông đạo
Phật, đã ca ngợi trà có tánh chất tinh khiết và giống như một người có
đức hạnh cao quý, trà không sợ bị hư hỏng. Các vị Tăng sĩ Trung Hoa
trước đây đã thực hành nghi thức uống trà trước tượng của vị tổ
Bồ-đề-đạt-ma theo những cung cách trang trọng, biểu lộ trạng thái an
bình, rỗng lặng nhưng linh động của tâm uyên nguyên, tâm ban đầu nơi mỗi
chúng ta vốn luôn luôn tinh sạch và tỏa chiếu sự thấy biết chân thật.
Nghi thức này cùng với nền văn minh đời nhà Tống bị hủy hoại nặng nề khi
người Mông Cổ xâm chiếm và cai trị Trung Hoa. Nhiều hoa trái của nền
văn minh đó đã được chuyển sang Nhật Bản, được nuôi dưỡng và đơm hoa.
Ở
các thiền viện thuộc dòng Lâm Tế (Rinzai), các buổi thiền trà được diễn
ra một cách nhanh chóng và lặng lẽ. Sáng sớm, các thiền sinh thức dậy
vào lúc 3 giờ sáng, vệ sinh cá nhân rồi vào thiền đường. Thiền sinh phụ
trách pha trà (trà giả) đã sẵn sàng với các chén trà đã lau sạch bóng
cùng ấm trà nóng. Thiền sinh bưng khay đựng chén trà đến trước mỗi hai
thiền sinh, cúi đầu chào. Hai thiền sinh chắp tay xá đáp lễ và mỗi người
lấy cái chén nhỏ để trước mặt mình. Lần lượt như vậy cho đến khi mọi
người đều có chén, thiền sinh phụ trách mời trà đem bình trà đến giữa
mỗi hai người, trịnh trọng cúi chào và châm trà. Khi mọi người đã có trà
trong chén, một tiếng báo hiệu vang lên, mọi người để tâm vào hơi thở
nhẹ nhàng thoải mái, nâng chén trà lên và uống trà hoàn toàn trong tĩnh
lặng.
Các
thiền đường dòng Tào Động (Soto) không uống trà vào mỗi buổi sáng như
trên mà chỉ vào các dịp đặc biệt trong tháng. Vị thiền sư mời tất cả
thiền sinh uống một tách trà quý do một cư sĩ biếu ngài. Trong những dịp
ấy, vị thầy thường ân cần nhắc nhở môn sinh nỗ lực tu hành tinh tấn để
thâm nhập vào sự kỳ diệu của tâm giải thoát.
Điều
này làm chúng ta nhớ lại truyện các vị vua Nhật Bản ban trà cho quý vị
tăng sĩ, như vào năm 729, Thánh Vũ Thiên Hoàng ban trà cho một trăm vị
tăng tại cung Nại Lương. Đời sống tu hành của các vị tăng, ni và trà
liên hệ với nhau rất mật thiết về nội dung cũng như hình thức.
Thiền
trà nói trên là cách uống trà trong thiền đường, cùng phát triển theo
dòng thiền đốn ngộ do ngài Huệ Năng chủ xướng. Đến thế kỷ 15, người Nhật
đã tạo ra một nghi thức uống trà đặc biệt ở bên ngoài thiền viện mà
chúng ta thấy còn tồn tại cho đến nay. Tuy cách thức có khác nhau, nhưng
cũng phản ảnh sự hòa hợp, trang trọng, tinh sạch và tĩnh lặng của Trà
đạo.
Title: | Thiền & Trà đạo |
Authors: | Phụng Sơn |
Keywords: | Thiền;Trà đạo;Giáo lý |
Issue Date: | 2012 |
Publisher: | Viện Nghiên cứu Phật học Việt Nam |
Description: | Tạp chí Nghiên cứu Phật học. Số 2/2012 ; 5 tr. ; TNS07686 |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/55133 |
Appears in Collections: | Nghiên cứu Phật học và Phật hoàng Trần Nhân Tông (LIC) |
Nhận xét
Đăng nhận xét