http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/16437
Một người bắt giữ người
nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản như trường hợp nêu trên bị coi là phạm tội bắt
cóc người khác nhằm chiếm đoạt tài sản,
được quy định tại Điều 134 Bộ luật Hình sự năm 1999 sửa đổi bổ sung năm 2009
(BLHS).
Theo Điều 134 BLHS, người
phạm tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản phải có đồng thời hai hành vi: bắt cóc
con tin và đe dọa chủ tài sản để chiếm đoạt tại sản.
Hành vi bắt cóc là hành
vi bắt giữ người trái phép. Người bị bắt giữ có thể là trẻ em hoặc là người lớn
có quan hệ tình cảm thân thiết với chủ tài sản. Hành vi bắt cóc được thực hiện
nhằm chiếm đoạt tài sản. Nếu việc bắt cóc không nhằm mục đích chiếm đoạt tài sản
mà nhằm vào một mục đích khác thì hành vi bắt cóc không cấu thành tội này. Ví dụ,
nếu sự việc chỉ dừng lại ở việc bắt giữ con gái của A mà không có hành vi đòi
tiền chuộc của B thì không cấu thành tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản mà có
thể là hành vi khách quan của tội bắt, giam, giữ người trái pháp luật.
Để đạt được mục đích
chiếm đoạt người phạm tội có hành vi tiếp theo hành vi bắt cóc con tin là hành
vi đe dọa người thân của con tin. Hành vi đe dọa ở đây là hành vi đe dọa dùng
vũ lực nguy hiểm đến tính mạng, sức khỏe của con tin trong trường hợp người đe
dọa không thỏa mãn yêu cầu chiếm đoạt tài sản của người phạm tội. Với sự đe dọa
này, người phạm tội có thể tạo ra tâm lý lo sợ cho người bị đe dọa, buộc họ phải
thỏa mãn yêu cầu giao nộp tài sản nếu muốn tính mạng, sức khỏe của con tin được
an toàn.
Hành vi của tội phạm đồng thời xâm phạm đến quyền tự do thân
thể của “con tin”, đồng thời qua đó xâm phạm đến sự tự do ý chí và quyền sở hữu
tài sản.
Người phạm tội là bất kể
người nào có đủ năng lực trách nhiệm hình sự và đạt độ tuổi theo quy định của
pháp luật (từ 14 tuổi trở lên). Tuy nhiên, người chưa thành niên (dưới 18 tuổi)
phạm tội này có thể được miễn trách nhiệm hình sự, nếu gây hậu quả không lớn,
có nhiều tình tiết giảm nhẹ và được gia đình hoặc cơ quan, tổ chức nhận giám
sát, giáo dục.
Hành vi của người phạm
tội được thực hiện với lỗi cố ý, bởi mục đích của người phạm tội khi thực hiện
hành vi là nhằm buộc chủ tài sản phải giao nộp tài sản và chiếm đoạt tài sản
đó.
Khung hình phạt cơ bản
đối với tội bắt cóc người khác làm con tin nhằm chiếm đoạt tài sản có mức phạt
tù từ 2 năm đến 7 năm. Người phạm tội trong trường hợp có tình tiết tăng nặng
có thể bị phạt tù đến 20 năm hoặc tù chung thân. Ngoài ra, còn có hình phạt bổ
sung là phạt tiền từ 10 triệu đồng đến 100 triệu đồng; tịch thu tài sản, quản
chế hoặc cấm cư trú từ 01 đến 05 năm.
Đối chiếu với Điều 134
BHHS, B có thể bị xử phạt tù từ mười lăm năm đến hai mươi năm hoặc tù chung
thân (khoản 4). Ngoài ra, B còn có thể bị phạt tiền từ mười triệu đồng đến một
trăm triệu đồng, tịch thu một phần hoặc toàn bộ tài sản, phạt quản chế hoặc cấm
cư trú từ một năm đến năm năm
.
Title: | Tội bắt cóc nhằm chiếm đoạt tài sản trong luật hình sự Việt Nam |
Authors: | Nguyễn, Kim Chi |
Keywords: | Luật hình sự;Pháp luật Việt Nam;Tội bắt cóc;Tội phạm |
Issue Date: | 2009 |
Publisher: | Đại học Quốc gia Hà Nội |
Citation: | 100 tr. |
URI: | http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/16437 |
Appears in Collections: | Luận văn - Luận án (LIC) |
Nhận xét
Đăng nhận xét