Truyện
cổ tích Việt Nam là những truyện truyền miệng dân gian kể lại những câu chuyện
tưởng tượng xoay quanh một số nhân vật quen thuộc như nhân vật thông minh,ngốc
nghếch, nhân vật dũng sĩ, người mồ côi, người em út, người con riêng, người
nghèo khổ, người quái hình dị dạng và cả những câu chuyện kể về các con vật nói
năng và hoạt động bình thường như con người.nó còn là chuyện từ ngày xưa chưa
biết là có thật hay không.Truyện cổ tính thường mang yếu tố hoang đường, kì ảo,
thể hiện ươc mơ của nhân dân ta về chiến thắng cuối cùng của cái thiện và cái
ác, sự công bằng và bất công.
Căn
cứ vào nhân vật chính và tính chất sự việc được kể lại, có thể chia truyện cổ
tích ra làm 3 loại.
Truyện
cổ tích về loài vật: chuyện ngụ ngôn những con vật nuôi trong nhà, khi miêu tả
đặc điểm các con vật thường nói đến nguồn gốc các đặc điểm đó: Trâu và ngựa,
Chó ba cẳng...; nhóm hoang dã là hệ thống truyện về con vật thông minh, dùng mẹo
lừa để thắng các con vật mạnh hơn nó: Cóc kiện Trời, Sự tích con sam, Thạch
Sùng còn thiếu mẻ kho, Sự tích con dã tràng, truyện Công và Quạ. Truyện dân
gian Nam Bộ về loài vật có: Tại sao có địa danh Bến Nghé, Sự tích rạch Mồ Thị
Cư, Sự tích cù lao Ông Hổ...; chuỗi Truyện Bác Ba Phi: Cọp xay lúa...
Truyện
cổ tích thần kỳ: chuyện Cổ tích thần kỳ kể lại những sự việc xảy ra trong đời sống
gia đình và xã hội của con người. Đó có thể là những mâu thuẫn giữa các thành
viên trong gia đình phụ quyền, vấn đề tình yêu hôn nhân, những quan hệ xã hội
(Tấm Cám, Cây khế, Sự tích con khỉ,Sự tích Trầu Cau...). Nhóm truyện về các
nhân vật tài giỏi, dũng sĩ, nhân vật chính lập chiến công, diệt cái ác, bảo vệ
cái thiện, mưu cầu hạnh phúc cho con người (Thạch Sanh, Người thợ săn và mụ Chằng).
Nhóm truyện về các nhân vật bất hạnh: về mặt xã hội, họ bị ngược đãi, bị thiệt
thòi về quyền lợi, về mặt tính cách, họ trọn vẹn về đạo đức nhưng thường chịu đựng
trừ nhân vật xấu xí mà có tài (Sọ Dừa, Lấy vợ Cóc, Cây tre trăm đốt
Truyện
cổ tích thế tục: Truyện tiếu lâm Truyện cũng kể lại những sự kiện khác thường
ly kỳ, nhưng những sự kiện này rút ra từ thế giới trần tục. Yếu tố thần kỳ, nếu
có, thì không có vai trò quan trọng đối với sự phát triển câu chuyện như trong
cổ tích thần kỳ. Nhóm truyện có đề tài nói về nhân vật bất hạnh (Trương Chi, Sự
tích chim hít cô, Sự tích chim quốc...); nhóm có nội dung phê phán những thói xấu:
(Đứa con trời đánh, Gái ngoan dạy chồng...); nhóm truyện về người thông minh:
(Quan án xử kiện hay Xử kiện tài tình, Em bé thông minh, Cái chết của bốn ông
sư, Nói dối như Cuội...); nhóm truyện về người ngốc nghếch: (Chàng ngốc đi kiện,
Làm theo vợ dặn, Nàng bò tót...)
Trong
truyền thống văn học cổ đại Nhật Bản, ngoài thần thoại, ca dao còn có truyện cổ.
Cổ tích hay truyện cổ dân gian dùng để gọi những câu truyện có nguồn gốc từ thời
xa xưa, lưu truyền trong dân. Người ta không rõ niên đại của nó và nó thường được
truyền miệng trong một khoảng thời gian dài (cho đến khi các nhà sưu tập thêm bớt
những yếu tố của thời đại họ để viết ra một cách hoàn chỉnh). Truyện cổ dân
gian nhiều khi được xem như truyện nhi đồng mà đối tượng dĩ nhiên là trẻ con.
Giống như một con người, một dân tộc cũng có thời trẻ con của nó, cho nên nội
dung của các truyện cổ dân gian thường là đơn sơ chất phác mà mục đích có thể
là để giải thích một hiện tượng thiên nhiên, truyền lại lớp người sau một kinh
nghiệm cuộc sống hay để mua vui. Nhân vật trong đó có thể là thần tiên, thế giới
động vật hay thực vật chung quanh họ và đượm màu viễn mơ như trong một giấc mộng.
Nó chưa có được cấu trúc hợp lý , tinh vi, có mục đích giải khuây thuần túy và
chưa đượm màu sắc luân lý của các truyện giải buồn (otogi-banashi), truyện kể
(monogatari) tức là một hình thức tiểu thuyết sơ khai hay truyện răn dạy
(setsuwa) của đời sau.
Những
nhà khảo chứng đầu tiên của Nhật về cổ tích (mukashi.banashi) dưới dạng truyện
nhi đồng (dôwa hay warabe no monogatari) có lẽ là hai người viết tiểu thuyết thời
Edo : Santô Kyôden (Sơn Đông, Kinh Truyền, 1761-1816) và Kyokutei Bakin (Khúc
Đình, Mã Cầm, 1767-1848). Takagi Toshio [29]cho biết Kyoden trong tác phẩm
Kottoshuu (Cốt đổng tập) « Tập Truyện Cổ » đi tìm nguồn gốc của truyện « Khỉ và
cua đánh nhau » (Saru kani gassen, truyện này giải thích tại sao bây giờ mặt khỉ
lại đỏ và càng cua lại có lông). Theo ông, truyện khỉ và cua nầy đã thấy chép
trong một tác phẩm tên « Truyện lạ dạy con » (Isei teikun, Dị chế đình huấn) đã
có từ 500 trước (nghĩa là thế kỷ 13). Tác phẩm đó lại là vật sao chép các yếu tố
đã được các ông già bà cả truyền miệng từ trước nữa.
Nguồn
gốc các truyện cổ khó minh định vì nó vừa bắt nguồn từ trí tuệ dân gian nhưng
cũng có thể đến từ kinh Phật, từ Trung Quốc, Triều Tiên hay từ sử sách Nhật Bản
nữa mà hình thức cố định có khi chỉ mới hoàn thành sau nầy (cuối thời Muromachi
:1392-1573). Nhà viết tiểu thuyết Bakin thời Edo trong quyển thứ tư của « Ghi lại
ngọc thô núi Yên Sơn » (Enseki zasshi, Yên thạch tạp chí) cũng đã cất công khảo
chứng 7 truyện cổ dân gian nổi tiếng mà ông ví là những viên ngọc thô lấy ở núi
Yên Sơn bên Trung Quốc, cần phải mài giũa để thấy giá trị đích thực của chúng.
Đó là « Khỉ và cua đánh nhau » (Saru kani gassen), « Cậu bé anh hùng sinh từ quả
đào » (Mono Tarô), « Chim se sẻ bị cắt lưỡi biết đền ơn» (Shitakiri-suzume), «
Ông lão làm hoa nở » (Hanasakajiji), «Tài nghề của thỏ » (Usagi ôtegara), « Gan
khỉ sống » (Saruno ikigimo), « Chàng Urashima Tarô » (Urashima-shi).
Dù
vậy, bước vào thời hiện đại, đã có nhiều học giả Nhật Bản đã ra công góp nhặt
và phân tích truyện cổ. Người đầu tiên ở Nhật nghiên cứu truyện cổ một cách
nghiêm túc có lẽ là nhà dân tộc học Yanagita Kunio (Liễu Điền, Quốc Nam,
1876-1962). Năm 1947, ông đã cho in Nihon mukashibanashi meii (Nhật Bản tích
thoại danh vựng) “Thu góp truyện cổ dân gian Nhật Bản” nói về nguồn gốc, lịch sử
và các thể loại truyện cổ. Ông xem truyện cổ như “đứa con rơi” của thần thoại,
trước tiên bắt đầu với những truyện về người anh hùng (10 thể loại với 83
mô-típ), sau đó lại sinh sôi ra những thể loại phụ như truyện nhân duyên vợ chồng,
truyện cỏ cây chim muông và truyện cười (5 thể loại với 153 mô-típ). Học trò của
ông, Seki Seigo (Quan, Kính Ngô, 1899-1990), người chú trọng tính quốc tế của
truyện cổ và chủ trương nghiên cứu đối chiếu, bởi vì con người cổ đại thường có
nhũng thắc mắc chung như tìm hiểu con người đã được tạo dựng ra bằng cách nào,
làm sao để có lửa, tại sao đất sinh ra hoa màu… Seki đã biên tập Nihon
mukashibanashi shuusei (Nhật Bản tích thoại tập thành) “Tổng tập truyện cổ Nhật
Bản” gồm 6 quyển (1950-58) qui tụ 8700 truyện. Sau đó Ineda Kôji (Đạo Điền, Hạo
Nhị) và Ozawa Toshio (Tiểu Trạch, Tuấn Phu) đã góp lại truyện cổ Nhật Bản trong
Nihon mukashibanashi tsuukan (Nhật Bản tích thoại thông quan) “Nhìn suốt truyện
cổ Nhật Bản”, 29 quyển (1977-89), gồm sáu vạn truyện và biến thể của chúng, xem
như tập tư liệu đầy đủ nhất từ trước tới nay
Mời
các bạn quan tâm tham khảo bài viết cùng chủ đề của tác giả Nguyễn Thị Nguyệt tại đường link http://repository.vnu.edu.vn/handle/VNU_123/25632
Nhận xét
Đăng nhận xét