Cảm nhận thi hứng từ Bát nhã tâm kinh

Bát-nhã tâm kinh là bài kinh nói về tâm, nhưng không phải là tâm suy nghĩ thường tình của người đời mà nói về cái tâm “đến bờ kia”. Nó là cái trí có thể soi thấu được cội nguồn của mọi hiện tượng, sự vật trên thế gian này. Với người tu Phật, bài kinh đó là ngọn đuốc dẫn đường giúp hành giả đến đích.




Bát-nhã, được người xưa phân thành ba:
1- Văn tự Bát-nhã.
2- Quán chiếu Bát-nhã.
3- Thực tướng Bát-nhã.

Văn tự Bát-nhã

Bài Tâm kinh, dù viết bằng tiếng Phạn hay được dịch ra tiếng Hán, tiếng Việt, đều gọi là Văn tự Bát-nhã. Nói đến thực tướng của Bát-nhã thì không ba cũng không một. Phân ba, là y vào tâm chúng sinh mà phân. Do chúng sinh chưa thể một bước vào thẳng Quán chiếu hay Thực tướng Bát-nhã, nên phải mượn ngôn từ chuyển tải mà thành Văn tự Bát-nhã.

Nếu ngày đêm chỉ làm một việc là tụng Bát-nhã, không cần hiểu cũng không cần hành, là ta đang ứng dụng Văn tự Bát-nhã. Tuy chưa hiểu và hành theo những gì kinh nói, việc tụng niệm vẫn mang lại ít nhiều lợi lạc cho người tu. Tụng kinh dù là kinh gì, đương nhiên phải là kinh Phật, thì ngoài việc giúp huân tập kinh điển vào tạng thức của mình, còn là bước đầu giúp chúng ta quy hướng Phật đạo. Nó có tác dụng giúp tâm an định phần nào. Nhờ vậy, tụng bất cứ kinh gì với tâm thành kính và tập trung, ta đều gặt được sự an lạc trong hiện tại.

Nếu không chỉ tụng đọc mà còn hiểu được ít nhiều bài kinh nói gì, là đang vận dụng Văn tự Bát-nhã ở mức cao hơn. Đó là nhịp cầu giúp ta bước lần từ Văn tự Bát-nhã sang Quán chiếu Bát-nhã. Vì thế, chư tôn đức đã phải bỏ công dịch hết kinh này đến kinh khác, từ Phạn sang Hán, từ Hán sang Việt để chúng sinh có thể hiểu mà hành. Bởi chỉ khi thực hành đúng những gì kinh đã nói, ta mới nhận được lợi ích thiết thực, không chỉ cho mình mà cả cho người.


Mở đầu bài Tâm kinh là câu “Quán Tự Tại Bồ-tát hành thâm Bát-nhã ba-la-mật-đa thời chiếu kiến ngũ uẩn giai không độ nhất thiết khổ ách”. Đó là phần âm Hán. Người không hiểu thì đọc thuộc lòng bao nhiêu, cũng chỉ thế mà thôi. Cho nên, phải dịch ra tiếng Việt để hiểu. Hiểu rồi còn bước sang Quán chiếu Bát-nhã.

Dịch: “Bồ-tát Quán Tự Tại, khi hành sâu Bát-nhã ba-la-mật-đa, chiếu thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách”. Một bậc tôn túc đã dạy: Ở bản tiếng Phạn, chữ “sâu” đó không bổ nghĩa cho “hành” mà cho mấy từ Bát-nhã ba-la-mật-đa. Nghĩa là “Bồ-tát Quán Tự Tại, khi hành Bát-nhã ba-la-mật-đa thâm sâu, chiếu thấy năm uẩn đều không, qua hết thảy khổ ách”. Bát-nhã thâm sâu là muốn nói đến chỗ thâm sâu của Bát-nhã1, chính là Thực tướng Bát-nhã. Nói sâu là đối với cạn mà nói. Cạn là Văn tự Bát-nhã và Quán chiếu Bát-nhã. Sâu hay cạn không do Bát-nhã có sâu cạn, mà bởi mê tâm của chúng sinh thô tế có nhiều đường, nên Bát-nhã thành có thô tế. Đọc tụng Văn tự Bát-nhã và Quán chiếu Bát-nhã, gọi là hành cạn. Thâm đạt Thực tướng Bát-nhã, gọi là hành sâu. Chỗ đó không có năng hành cũng không có sở hành. Nói hành, là y nơi tâm chúng sinh mà nói. Như vậy trên mặt văn từ, “hành sâu” hay “Bát-nhã sâu” thấy có sự sai khác, nhưng ở mặt ý nghĩa thì không khác.

Câu kinh không nói đến phàm phu cũng không nói đến Phật mà nói đến Bồ-tát. Vì sao? Vì Phật là người đã thành tựu quả vị Phật, không còn là đối tượng của bài kinh. Phàm phu, chỉ thích ngũ dục, đây không phải là con đường họ mong muốn. Chỉ có Bồ-tát, là những hữu tình giác đang học và hành theo những gì Phật Tổ dạy, là người đang trên đường thâm nhập lại trí Bát-nhã của mình. Đó mới là hạng cần phải học, phải hành và phải chứng cho được Bát-nhã. Vì thế, đây chỉ nói đến Bồ-tát. Tất cả những ai đang quy hướng Phật đạo, đều gọi là Bồ-tát. Tùy mức độ hiểu biết cũng như công phu tu hành mà trong kinh Thủ lăng nghiêm, Bồ-tát được phân thành năm mươi mấy hạng vị.

Bồ-tát nói đây có pháp hiệuQuán Tự Tại. Tự tại, là không bị ràng buộc. Không bị ràng buộc là do không dính mắc. Không dính mắc là nhờ không bị thói quen dẫn chạy. Như người không nghiện ớt thì có ớt hay không có ớt, mọi thứ vẫn bình thường. Ta tự tại với ớt. Nhưng một khi đã nghiện ớt thì không có ớt, mọi thứ thành thiếu thốn, khó chịu. Đó là trạng thái dính mắc, không tự tại.

Với những thứ khác cũng vậy, ta tập quen với chúng nhiều quá. Ta tích tụ nó trong tạng thức nhiều quá, khiến nó có cái lực bắt mình theo nó, không cưỡng lại được. Cái không cưỡng được đó là hình thái của việc không tự tại. Không phải chỉ trong hiện đời mà từ vô thủy kiếp đến nay, hầu hết chúng ta khó tự tại được với sắc, thanh, hương, vị, xúc, pháp. Nếu chúng đầy đủ đối với mình thì mình thấy tự tại. Nhưng khi thiếu chúng, mình giống như con thuyền gặp sóng, lao đao, lận đận, cô độc, chênh vênh. Ngũ uẩn thay vì không, đều thành có. Giờ muốn trở lại chỗ ban đầu, phải làm Bồ-tát Quán Tự Tại. Muốn làm Bồ-tát Quán Tự Tại thì phải tập bỏ dần các thói quen ở thân, cũng như ở tâm.

Tụng Bát-nhã tâm kinh, tuy tâm hồn có phơi phới. Nhưng mở đầu bài kinh, không nói “tụng” mà nói “hành sâu”. Nếu tụng Bát-nhã mà thân tâm chúng ta đều không, là điều kiện để vượt qua tất cả khổ ách, thì tụng Bát-nhã chính là “hành sâu”. Nhưng thực tế, nếu chỉ tụng Bát-nhã thôi thì chưa thể gọi là “hành sâu”. Vì còn ngôn từ chữ nghĩa, còn năng hành và sở hành tác pháp. Còn năng hành và sở hành tác pháp thì còn chưa “không”. Trong khi Bát-nhã thâm sâu thì “không”. “Không”, không phải do đối với có mà lập, mà do lìa nhị biên phân biệt, nên “không”.

Có vị nói, cái “không” đó không phải là cái không đối với có mà là cái không trống rỗng. Nói vậy, vẫn chưa lìa được nhị biên phân biệt. Lìa nhị biên phân biệt thì cái “không” đó không phải là trống rỗng hay không trống rỗng. Nếu nó “trống rỗng” thì kinh đã không nói “không tức là sắc”. Đã nói “không tức là sắc” thì không thể khẳng định nó trống rỗng. Nói “không” chỉ vì chúng sinh đang chấp có. Còn “không” đó, không phải là đối tượng bị biết của tâm nhị biên, thành không thể khẳng định nó trống rỗng hay không trống rỗng.

Muốn thâm nhập được cái “không thâm sâu” đó thì “Tâm hành ngôn ngữ đoạn”2. Nghĩa là muốn thâm nhập được cái trí đó, không phải chỉ có ngôn ngữ phải đoạn mà tâm hành cũng phải đoạn. Vì thế, muốn hết tất cả khổ, từ việc ăn mặc, tình cảm cho đến sở tri, phân biệt, cần phải soi thấu bản chất của chúng. Nhờ soi thấu bản chất của chúng nên hết tất cả khổ. Muốn vậy, phải hành sâu Bát-nhã. Muốn làm Bồ-tát Quán Tự Tại thì không thể cứ ứng dụng Văn tự Bát-nhã mãi mà phải chuyển qua Quán chiếu Bát-nhã.

Phải dụng cho được Quán chiếu Bát-nhã, mới có ngày làm Bồ-tát Quán Tự Tại chiếu thấy năm uẩn đều không. Có chiếu thấy năm uẩn đều không, mới qua được hết thảy khổ ách. Không chỉ hết cái khổ Phần đoạn mà cả cái khổ Biến dịch cũng hết. Chỉ khi thấy thân tâm vạn pháp như huyễn, mới có thể hết tất cả khổ. Nếu thân tâm chưa không, vạn pháp còn thấy như thật, thì tới đâu cũng đầy chướng ngại. Chỉ khi nhận ra được mặt huyễn hóa của chúng, ta mới thật sự được “vô quái ngại”. Muốn vậy, không thể chỉ dừng ở việc tụng niệm Bát-nhã tâm kinhmà phải dụng cho được cái gọi là Quán chiếu Bát-nhã.

Quán chiếu Bát-nhã

Muốn quán chiếu, trước phải hiểu quán cái gì, vì sao quán và quán như thế nào? Đó là lý do vì sao Bát-nhã tâm kinh có những đoạn kế tiếp: “Xá Lợi Tử! Sắc bất dị không, không bất dị sắc, sắc tức thị không, không tức thị sắc…”.

Trước khi nói về thực chất của sắc và không, Phật gọi “Xá Lợi Tử!”.

Xá Lợi Tử, là Xá Lợi Phất? Dù là Xá Lợi Phất, cũng chỉ tượng trưng cho hình ảnh trí tuệ. Một cái tên đại diện cho những ai đang quy hướng Phật đạo.
Nếu dịch nghĩa cái tên ấy ra, thì “Tử” có là nghĩa mầm giống. Như “ngư tử” là giống cá, “đào tử” là giống đào. Xá Lợi Tử, là giống xá-lợi. Muốn có xá-lợi Phật thì nhất định phải có giới, định, tuệ. Giới, định, tuệ là nền tảng để có xá-lợi Phật. Xá Lợi Tử, là chỉ cho những ai đang lấy giới, định, tuệ làm tư lương của mình. Chỉ có Bồ-tát mới tu tập những thứ như vậy.
Trước khi giảng thuyết về thực chất của “sắc” và “không”, phải kêu đích danh người đang học, đang hành và sẽ chứng phần Bát-nhã thâm sâu này.

Xá Lợi Tử!”, là một lời nhắc nhở, một lời lay tỉnh, một lời nhấn mạnh. Hãy lắng nghe!
Đó là những ai đang quy hướng Phật đạo, những ai có duyên với Bát-nhã tâm kinh. Chỉ cần một lần lướt qua kinh này, chúng ta đã có phần trong đó. Chỉ là mau hay chậm. Nó tùy thuộc vào lực huân tập của mỗi người.
Gọi để làm gì?
Sắc chẳng khác không, không chẳng khác sắc”. Nói cho biết mối liên hệ giữa sắc và không. Muốn nhấn mạnh cho Phật tử biết mối tương quan mật thiết giữa sắc và không.
Sắc, chỉ cho thân xác của chúng sinh, thứ mà ai cũng yêu quý nhất đời, đã vì “nó” mà tạo bao ác nghiệp v.v… Vậy mà nó không khác không, không lìa không mà có. Không lìa thế nào?
Sắc tức là không, không tức là sắc”. Ngay nơi sắc là không. Ngay nơi không là sắc. “Tức”, là ngay đó mà không phải đó. Ngay nơi sắc là không mà sắc chẳng phải không. Ngay nơi không là sắc mà không chẳng phải sắc. 
Sắc tức là không”, là ngay khi sắc đang có đó, đã hiện diện cái không, không phải đợi sắc hoại mới thành không. 

Bát-nhã tâm kinh, không nói đến động và tịnh mà nói đến sắc và không. Tịnh đó không phải không, nên dễ phân biệt. Đây nói không, nên phải tạm phân thành hai. Một cái không duyên khởi đồng thời với sắc. Một cái không, là sở y của cả sắc và không.

Cùng là “không”, sao lại phân thành nhiều thứ? Là do nghiệp thức của chúng sinh. Do tâm thức chúng sinh mê ngộ không đồng mà cảnh trở thành sai khác, không phải vì bản chất của cảnh vốn là vậy.  

Cái không duyên khởi đồng thời với sắc này vẫn còn là đối tượng của nghiệp thức, nhưng đây là nghiệp thức của thánh nhân không phải nghiệp thức của phàm phu. Còn tánh không thì không thuộc năng sở, thấy hay không thấy.
Như vậy với sắc và không, tạm phân thành ba trường hợp. Nói ba, vì y vào nghiệp thức của phàm phu, thánh nhân và Phật và nói. Cảnh vốn không có ba.
1- Phàm phu, thấy sắc hoại rồi mới thấy không, hoặc chỗ nào không có sắc mới gọi là không. Tức phàm phu chỉ mới thấy được mặt duyên khởi thứ lớp của sắc và không, là thấy được mặt duyên khởi nhờ vào ngôn từ suy luận.
2- Thánh nhân, không phải chỉ cho hàng Bồ-tát Tam hiềnNhị thừa (dù ở quả La-hán hay Bích Chi Phật) mà phải là hàng đã kiến tánh trong Thiền tông, là người đã chứng được Căn bản trí và đang ở giai đoạn Hậu đắc trí, mới có thể thấy được mặt duyên khởi đồng thời này. Chư vị thấy được sắc và không duyên khởi đồng thời với nhau. Ngay sắc đã có không.
3- Thấy Phật tánh, nhà thiền hay nóikiến tánh. Ngay niệm kiến tánh đó, tâm hành giả đồng với chư Phật. Vì liên quan đến niệm kiến tánh đó mà tạm nói là nghiệp thức của Phật để dễ phân biệt. Còn với Phật, không nói đến nghiệp thức nữa. Tuy “Đốn ngộ đồng chư Phật” nhưng “Đa sanh tập khí thâm”, nên chưa thể gọi chư vị là Phật mà gọi là Bồ-tát.

Ngay cái niệm kiến tánh đó, là lúc tánh không hiển bày, gọi là đốn ngộ (triệt ngộ). Ngay cái đốn ngộ đó, tánh và tướng không hai, phi tánh, phi tướng, phi sắc, phi không. Như trong Lăng-già, Phật trả lời 108 câu của ngài Đại Huệ bắt đầu bằng bốn từ vô, bất, phi, ly. Như luận Đại thừa khởi tín nói: “Phải biết tự tánh chân như chẳng phải tướng có, chẳng phải tướng không, chẳng phải tướng chẳng có…”. 
Đó là y vào tâm chúng sinh mà tạm phân cái không thành ba.

Không tức là sắc”, là muốn nói cái không đó không phải đợi sắc hoại mới có không. Cái không này, hoặc duyên khởi đồng thời với sắc hoặc nó là sở y của tất cả pháp. Đó là lý do không thể khẳng định nó là “trỗng rỗng” hay “không trống rỗng”. Nếu nó trống rỗng thì không thể có cái vế “Không tức là sắc” này. Nếu nó không trống rỗng thì nó chính là sắc, không tồn tại một cái không để nói “Sắc tức là không”. Thành nói trống rỗng hay không trống rỗng, là phải nói ở trong duyên. Thứ gì đã ở trong duyên thì đều hư vọng, không mang tính xác định phổ quát.

Không phải chỉ sắc thôi, mà 4 thứ còn lại là thọ, tưởng, hành, thức cũng lại như vậy. Nghĩa là, năm uẩn chẳng khác không. Không chẳng khác năm uẩn. Năm uẩn tức là không. Không tức là năm uẩn. Cái không nói đó, hoặc là nhìn thấu tánh không của năm uẩn, hoặc là nhìn thấy nó ở mặt duyên khởi, mà biết tánh nó là không.

Trên, Phật nói về thực tướng của sắc. Sau, Phật nói về thực tướng của không.
Xá Lợi Tử! Tướng không của các pháp, không sinh không diệt, không nhơ không sạch….
Bắt đầu phần quan trọng khác, Phật lại gọi “Xá Lợi Tử!”. Hãy lắng nghe! Lại lay tỉnh. Lại nhắn nhủ. Lại nhấn mạnh.
Tướng không của các pháp, không sinh không diệt, không nhơ không sạch, không tăng không giảm…”, là nói về thực chất của không. Thực chất của không cũng chính là thực chất của sắc. Sắc và không đồng cội, đồng nguồn. Nói vậy, là trong trường hợp nhìn cái không đó duyên khởi đồng thời với sắc.

“Tướng không” nếu được hiểu thẳng là “tánh không” thì tánh đó, lìa nhị biên phân biệt. Vì sao có thể hiểu thẳng? Vì tuy tánh không phải là tướng, nhưng ở chỗ tột cùng thì tánh và tướng không hai. Vì thế nói thật tướng cũng được mà nói thật tánh cũng được. Tánh đó “phi” tất cả. Chính vì “phi” tất cả, mới có mấy câu: “Trong cái không đó, không có sắc, thọ, tưởng, hành, thức… Không trí cũng không đắc”. Năm uẩn thuộc về nhân. Tứ đế, Thập nhị duyên sanh v.v… thuộc về pháp. Tạm phân như vậy. Nhân không. Pháp cũng không.

Trên, tuy phân cái không đó thành ba, nhưng đây không nói đến ba cũng không nói đến hai. Vì nói đến thực chất (tánh) của những tướng đó. Tướng thì có sai khác mà tánh thì không sai khác. Vì lìa mọi nhị biên phân biệt

Đây là mượn ngôn từ để nói về Thực tướng Bát-nhã như Bát bất của Trung luận, 108 câu trong Lăng-già. Chứng được chỗ đó, chính là chứng được cái nhân vô sanh, để có cái quả là Niết-bàn Phật. Nói chứng, là để chúng sinh biết đường mà thâm nhập. Còn chỗ đó không chứng, không đắc, không có chỗ nơi, cũng không dừng ở tin và hiểu
.   
Quán chiếu Bát-nhã là nhân
Phật đã dùng ngôn từ để tạm nêu bày cho chúng sinh thấy tánh thể của tất cả pháp. Muốn chứng nhập lại tánh thể đó, cần vận dụng Quán chiếu Bát-nhã, không thể chỉ dừng ở mặt Văn tự Bát-nhã. Phần Quán chiếu này, phải có tác dụng đưa tâm hiện nay của chúng sinh thuận dần với cái không, để mỗi Xá Lợi Tử có thể “bùng vỡ” và thể nhập.
Có nhiều cách giúp chúng sinh thể nhập lại tánh thật của mình. Niệm Phật4, Tham công án, Mặc chiếu v.v… đều là những phương tiện giúp hành giả chứng nhập lại phần thâm sâu của Bát-nhã. Bởi chúng đều có tác dụng giúp hàng phục dòng vọng niệm, đều có tác dụng đưa những niệm tưởng từ “nhiều” về “một”, từ “một” về “không”. Đây chỉ nêu ra một pháp tượng trưng để biết sơ về cái gọi là Quán chiếu Bát-nhã. Đó là dùng “trí dụng” của chân thể để thấy và chiếu phá những gì hiện lên trong tâm. Giúp đưa cái tâm đa niệm thuận dần với cái không. Đó là pháp quán chiếuĐại sư Hám Sơn đã dạy trong luận Đại thừa khởi tín trực giải.
Luận nói:
“Tất cả chúng sanhchân tâm mình, một bề chỉ nương vọng tâm làm việc. Nên nay tu tập, lấy việc trừ tưởng làm đầu”.
Đại sư xác định, một khi chưa chứng nhập được pháp thân (đây nói chứng nhập, không nói tin nhận) thì tất cả đều y nơi vọng tưởng mà làm việc. Tất cả mọi hành tác thuộc thân và khẩu đều bị dòng nghiệp lực chi phối. Để đối trị việc đó cần phải đặt vấn đề trừ tưởng. Nói đến “trừ” là do vọng tưởng còn lực, mọi thứ đối với chúng sinh vẫn còn như thật, chưa có gì là vọng. Một khi vọng hiện nguyên hình là vọng, tức lực nghiệp đã không thì việc trừ tưởng cũng không lập.     
“Vọng tưởng không tánh, vì sao lại trừ”?
Đây là câu hỏi mà nhiều hành giả tu thiền đã vướng trong việc thực hành pháp. Câu trả lời của Đại sư sẽ giải quyết việc đó. Cần phân biệt rõ giữa phương tiệncứu cánh. Cũng cần phân biệt khi nào phải dùng pháp đối trị, khi nào không cần đến pháp đối trị.
Ngày nay, khá nhiều người dụng pháp lầm lẫn. Nói là tu mà thật là không tu. Bao năm qua, chúng sinh vẫn hoàn chúng sinh. Tham dục, sân nhuế v.v… ngày huân thêm sâu. Vì dùng pháp không đúng duyên của mình.
Cần phải có cái thấy như Đại sư Bạch Ẩn đã nói: “Qua tất cả câu chuyện vừa kể5, giác ngộ đối với người xưa sao quá khó khăn mà người bây giờ lại dễ thành tựu không cần công phu? Có phải người xưa yếu đuối, thiếu năng lực chăng? Có phải người nay văn minhtrưởng thành hơn? Có phải cách dạy của người xưa dở kém hơn người ngày nay? Huệ Khả chặt cánh tay. Từ Minh lấy dùi châm vào đùi. Một vị tọa thiền liên tục. Một vị giam mình trong thất không ra ngoài. Tại sao các vị phải tự đặt mình vào hoàn cảnh khó khăn như vậy? Nếu như sự chứng ngộ dễ dàng của người ngày nay là chân chánh thì sự lao nhọc của người xưa là sai lầm. Nếu sự lao nhọc của người xưa không sai lầm, tất có điều gì đó lầm lẫn trong sự chứng ngộ của người đời nay. Làm sao cùng một nền tảng giác ngộ mà người ngày nay đạt được trong lối sống nửa say nửa tỉnh, lầm lạc uổng phí đời mình vì tin vào quan điểm ngu si thường tình cho là ngộ không cần dụng công, chỉ như hốt bụi trên đất? Những người này chẳng khác nào kẻ hay vào nghĩa địa nhặt đồ cúng tế về ăn”. Không thể chỉ mới tin nhận mình có Phật tánh mà đã có thể trở thành kẻ kiến tánh, rồi buông lung tham dục, không cần nói đến việc dụng công. Nếu chỉ cần tin mà liền thành quả như thế thì chư vị Tổ sư đã không phí công chỉ bày các phương tiện Chỉ, Quán, Niệm Phật v.v…   
 
 

Nhận xét